1. LƯỜI BIẾNG: Ai trong chúng ta cũng có sự lười biếng. Chúng ta luôn làm mọi việc cho-có, cho-xong. Chúng ta luôn muốn nghỉ ngơi để tận hương cuộc sống, tận hưởng tuổi trẻ. Chúng ta thích những việc nhẹ nhàng. Cũng được thôi nhưng nó sẽ hủy hoại cuộc sống của bạn. Lười biếng không phải cách để tận hưởng tuổi trẻ. Làm việc, đi, viết, đọc, khám phá mới chính là chìa khóa của việc tận hưởng.
2. MẤT TẬP TRUNG
Bạn bắt đầu làm việc với sự say mê và quyết tâm. Mất 30 phút để lên kế hoạch, danh sách, to-do-list và hoàn thành bài tập… nhưng sau đó bạn quyết định nghỉ ngơi một chút bằng cách lướt Facebook, Instagram, chơi game… và kết thúc cuộc dạo chơi đó sau 2 tiếng đồng hồ. Nói cho bạn biết, không thầy cô nào hoặc công ty nào đánh giá cao bạn bởi vì bạn chơi Candy Crush được điểm cao đâu!
3. QUÁ CÔ ĐƠN
Đừng mơ mộng sẽ có ai đó kéo bạn ra khỏi sự cô đơn hoặc thấy bạn đang làm việc khổ sở mà thương cảm. Chuyện đó chỉ có trong phim thôi. Nếu bạn đang cần lời khuyên cho những dự định sắp tới thì hãy đi hỏi những người quen biết. Nếu không có bạn bè thì bây giờ hãy dạn dĩ lên và làm quen với mọi người đi! Bạn đang cần tìm việc hoặc có bài tập khó hoặc muốn làm nghiên cứu trong lĩnh vực nào đó, hãy làm quen và chơi với những người giỏi về lĩnh vực đó. Làm như vậy bạn không thiệt thòi gì cả, đúng không?
4. SỢ BỊ TỪ CHỐI
Câu hỏi ở phía trên: “Bạn có thiệt thòi hay mất mát gì không?” Câu trả lời là không có gì cả. nhưng bạn vẫn không làm vì sợ câu trả lời từ chối. nếu bạn bắt đầu làm công việc gì đó, bạn nên sẵn sàng việc người khác sẽ từ chối bạn. người khác từ chối thì có vấn đề gì? Không gì cả. câu hỏi của bạn không rõ ràng, ý tưởng của bạn không hay… thì hãy nghĩ thêm và thực hiện nững ý tưởng tiếp theo. Chẳng sao cả.
5. DỄ DÀNG TỪ BỎ
Nhiều người giành được học bổng, nhận được việc là bởi vì bạn bỏ cuộc quá sớm và làm giảm sức cạnh tranh đi. Sở dĩ các cuộc phóng vấn xin việc, quy trình cấp học bổng luôn có nhiều vòng, nhiều bước là vì người ta muốn kiểm tra tính kiên nhẫn và theo đuổi của bạn, bên cạnh khả năng và sự thông minh. Bạn càng dễ dàng từ bỏ hơn khi “ngửi” thấy ngùi khó khăn phía trước. Bạn nên biết rằng có một vài suy đoán về khó khăn của bạn sẽ không xảy ra. Cố gắng bám trụ và bạn sẽ hài lòng vô cùng với kết quả mình đạt được.
6. THAN THỞ QUÁ NHIỀU
Dừng việc than thở, chán đời lại! Việc đó rất tốn thời gian, tốn calorie và tốn nước bọt. Không phải chỉ một mình bạn gặp khó khăn, ngoài kia còn rất nhiều người khó khăn hơn. Hãy cố gắng vượt qua.
7. LẮNG NGHE Ý KIẾN CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÔNG HIỂU BẠN
Có một sự thật đáng buồn là người ta thường cho lời khuyên thì không quan tâm bạn có thành công như mong muốn hay không. Họ còn có cuộc sống và công việc riêng. Những gì bạn luôn đau đáu nghĩ về, thì họ lại rất thờ ơ và đưa ra những lời khuyên chung chung, vô thưởng vô phạt. Vì vậy đừng nghe họ nữa, họ không hiểu gì đâu.
8. CHỜ ĐỢI CÔNG VIỆC HOÀN HẢO
Việc này sẽ chẳng đi đến đâu cả, thậm chí nếu bạn làm việc cho mình hay làm thuê cho người khác. Hãy nhận công việc mà bạn có thể thỏa sức sáng tạo hoặc tự do làm việc đến khi bạn nhận được việc tốt hơn. Muốn làm quản lý khách sạn, bạn phải thuần thục công việc gấp khăn trải giường, kiểm tra nhà vệ sinh, lau chén bát; muốn giàm giám đốc, bạn phải biết sắp xếp giấy tờ hồ sơ gọn gàng, biết đánh máy thật nhanh, biết sử dụng máy photocopy, máy in... Ai cũng phải từ dưới đi lên, đừng mơ mộng công việc hoàn hảo nữa mà hãy làm công việc hiện tại thật
9. TỰ DỐI MÌNH
Não bộ cũng ta rất hay có tình trạng ảo tưởng. Chúng ta thường tự nghĩ mình rất thông minh, xinh đẹp, vui tính, giỏi giang… nhưng thật sự là không phải vậy. Sự thật là IQ của bạn chỉ mức bình thường, guu thời trang nhàn nhạt, nói chuyện cười hơi vô duyên… Việc tự dối mình sẽ dẫn đến tự cao, sĩ diện hão rồi tự mãn. Hãy đánh giá bản thân thật khách quan và nghiêm khắc.
10. NGỦ QUÊN TRONG CHIẾN THẮNG
Bạn đậu đại học, học đại học được điểm cao, có học bổng; có việc làm, được sếp khen… Đó là những việc đã xảy ra rồi, chứ không phải tương lai. Hạt giống gieo ngày hôm qua chưa chắc sẽ nở hoa vào ngày mai. Người ta ít nhiều ngưỡng mộ vì thành quả bạn đã đạt được, còn tương lai thì sao? Đừng sống với quá khứ, đừng tự hào vì những gì đã xảy ra. Hãy luôn tự hỏi mình: Ngày hôm nay đã làm được những gì?
11. SO SÁNH BẢN THÂN VỚI NGƯỜI KHÁC
Có hàng vạn hàng tỉ người tài giỏi trên thế giới, tất cả họ đều giỏi hơn bạn, làm việc tốt hơn bạn. bạn không thể chạy nhanh hơn vận động viên chuyên nghiệp được, hãy cố gắng chạy nhanh hơn những người bạn đang quen biết. Nhưng cũng đừng tự ru ngủ bản thân rằng bản thân chúng ta là cá thể độc lập, không cần nhìn người khác mà sống. Biết được điều đó cũng tốt thôi nhưng đừng áp dụng quá mức, không khéo bạn sẽ trở thành kẻ vô dụng duy nhất đấy!
Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014
NHỮNG THÓI QUEN NÊN LOẠI BỎ NGAY
THỜI GIAN
ĐỪNG COI THƯỜNG THỜI GIAN –
MỘT NHÂN CHỨNG VÀ QUAN TÒA NGHIÊM KHẮC
(Sinh viên và NCS chú ý !)
Trong nghiên cứu khoa học, thời gian là một chỉ số vô cùng quan trọng, nó cho thấy diễn biến của lịch sử vấn đề và diễn biến quan điểm của người nghiên cứu, cũng như cho thấy bối cảnh của chủ đề được bàn luận. Nhìn vào các mốc thời gian, người ta có thể theo dõi được câu chuyện và đánh giá được sự đóng góp từng ý kiến trong việc giải quyết vấn đề.
Thông thường, mốc thời gian được căn cứ vào thời điểm xuất bản công trình hoặc tác phẩm. Nhưng cũng có những công trình, do những lý do khách quan, nên thời điểm ra đời và thời điểm công bố của nó có sự vênh nhau. Ví dụ, cuốn sách "Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám" đã được GS Đinh Gia Khánh hoàn thành từ năm 1966, nhưng đến năm 1968 mới xuất bản. Hay cuốn sách "Thi pháp thơ Tố Hữu" của GS Trần Đình Sử, viết xong từ năm 1985, nhưng đến 1987 mới xuất bản, v.v... Đây là những chi tiết thời gian rất quan trọng đối với những người nghiên cứu. Nó cho thấy thời điểm thực tế xuất hiện quan điểm nghiên cứu loại hình truyện cổ tích ở Việt Nam là có từ khi nào, hay thời điểm thực tế ra đời phương pháp nghiên cứu thi pháp hiện đại một cách có bài bản xuất hiện khi nào ở nước ta.
Thế nhưng, trong thời đại của xã hội thông tin ngày nay, trong cuộc chạy đua tốc độ với sự bùng nổ thông tin, rất nhiều người, nếu không nói là hầu hết, lại coi thường các mốc thời gian. Hầu như tất cả các nhà xuất bản, khi tái bản một cuốn sách, người ta thường không ghi rõ ở trang bìa lót cuốn sách đó được in lần đầu vào năm nào. Do đó có nhiều người nghiên cứu, vì không nắm được thông tin về lần xuất bản đầu, nên đã lấy thời gian tái bản cuốn sách làm mốc căn cứ để ghi nhận thời điểm xuất hiện quan điểm của tác giả cuốn sách. Còn đối với các trang mạng, khi trích bài từ mạng này sang mạng khác, người ta thường bỏ qua việc trích dẫn xuất xứ, trong đó có xuất xứ thời gian. Rất nhiều trang mạng, khi lấy bài từ báo khác hoặc từ trang mạng khác, thường chỉ ghi tên báo và tên trang mạng mà không ghi bài trích đó xuất bản trên số bao nhiêu và năm nào của tờ báo, hoặc xuất bản ngày nào của mạng đó. Thậm chí có tờ báo mạng còn không ghi cả tên tác giả! Chỉ những bài nào do tác giả trực tiếp gửi báo mạng sau khi đã đăng báo viết thì mới có xuất xứ rõ ràng, bởi vì tác giả đã chủ động ghi rõ xuất xứ cho báo, còn lại thì các chủ trang mạng hầu như không bao giờ tuân thủ cái quy định tối thiểu này. Vậy mà hiện nay lại không có một cơ quan nào làm nhiệm vụ giám sát và nhắc nhở các trang mạng tuân thủ cái quy định đó.
Luật bản quyền của nước ta (nằm trong "Luật Sở hữu Trí tuệ" đã được Quốc Hội thông qua ngày 29-11-2005) quy định rằng khi trích một ý kiến, một quan điểm hay một văn bản, người trích (tức người sử dụng) “phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm” (Điều 25, khoản 2). Việc ghi xuất xứ sẽ đảm bảo đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ của tác giả, đồng thời cho phép người đọc có thể kiểm tra tính chính xác của việc trích dẫn. Khi thiếu các yếu tố xuất xứ, thì văn bản được trích dẫn sẽ không còn giá trị sử dụng. Vì người đọc sẽ không biết quan điểm được trích dẫn đó là của ai, xuất hiện khi nào, ở đâu. Có nghĩa là văn bản đó mất hẳn “giá trị gia tăng”.
Đối với người dùng tin, khi sử dụng thông tin trích dẫn mà không căn cứ vào thời điểm xuất hiện của thông tin trích dẫn, thì sẽ lẫn lộn trình tự xuất hiện của các quan điểm trong diễn biến của vấn đề, dẫn đến chỗ đánh giá sai sự việc, làm cho công trình nghiên cứu hay bài viết của mình trở nên vô giá trị.
Như vậy, tôn trọng thời gian là yêu cầu tối thiểu của một nhà khoa học. Và đó cũng là yêu cầu tối thiểu của báo chí, kể cả báo viết, báo hình lẫn báo mạng.
18-3-2011
MỘT NHÂN CHỨNG VÀ QUAN TÒA NGHIÊM KHẮC
(Sinh viên và NCS chú ý !)
Trong nghiên cứu khoa học, thời gian là một chỉ số vô cùng quan trọng, nó cho thấy diễn biến của lịch sử vấn đề và diễn biến quan điểm của người nghiên cứu, cũng như cho thấy bối cảnh của chủ đề được bàn luận. Nhìn vào các mốc thời gian, người ta có thể theo dõi được câu chuyện và đánh giá được sự đóng góp từng ý kiến trong việc giải quyết vấn đề.
Thông thường, mốc thời gian được căn cứ vào thời điểm xuất bản công trình hoặc tác phẩm. Nhưng cũng có những công trình, do những lý do khách quan, nên thời điểm ra đời và thời điểm công bố của nó có sự vênh nhau. Ví dụ, cuốn sách "Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám" đã được GS Đinh Gia Khánh hoàn thành từ năm 1966, nhưng đến năm 1968 mới xuất bản. Hay cuốn sách "Thi pháp thơ Tố Hữu" của GS Trần Đình Sử, viết xong từ năm 1985, nhưng đến 1987 mới xuất bản, v.v... Đây là những chi tiết thời gian rất quan trọng đối với những người nghiên cứu. Nó cho thấy thời điểm thực tế xuất hiện quan điểm nghiên cứu loại hình truyện cổ tích ở Việt Nam là có từ khi nào, hay thời điểm thực tế ra đời phương pháp nghiên cứu thi pháp hiện đại một cách có bài bản xuất hiện khi nào ở nước ta.
Thế nhưng, trong thời đại của xã hội thông tin ngày nay, trong cuộc chạy đua tốc độ với sự bùng nổ thông tin, rất nhiều người, nếu không nói là hầu hết, lại coi thường các mốc thời gian. Hầu như tất cả các nhà xuất bản, khi tái bản một cuốn sách, người ta thường không ghi rõ ở trang bìa lót cuốn sách đó được in lần đầu vào năm nào. Do đó có nhiều người nghiên cứu, vì không nắm được thông tin về lần xuất bản đầu, nên đã lấy thời gian tái bản cuốn sách làm mốc căn cứ để ghi nhận thời điểm xuất hiện quan điểm của tác giả cuốn sách. Còn đối với các trang mạng, khi trích bài từ mạng này sang mạng khác, người ta thường bỏ qua việc trích dẫn xuất xứ, trong đó có xuất xứ thời gian. Rất nhiều trang mạng, khi lấy bài từ báo khác hoặc từ trang mạng khác, thường chỉ ghi tên báo và tên trang mạng mà không ghi bài trích đó xuất bản trên số bao nhiêu và năm nào của tờ báo, hoặc xuất bản ngày nào của mạng đó. Thậm chí có tờ báo mạng còn không ghi cả tên tác giả! Chỉ những bài nào do tác giả trực tiếp gửi báo mạng sau khi đã đăng báo viết thì mới có xuất xứ rõ ràng, bởi vì tác giả đã chủ động ghi rõ xuất xứ cho báo, còn lại thì các chủ trang mạng hầu như không bao giờ tuân thủ cái quy định tối thiểu này. Vậy mà hiện nay lại không có một cơ quan nào làm nhiệm vụ giám sát và nhắc nhở các trang mạng tuân thủ cái quy định đó.
Luật bản quyền của nước ta (nằm trong "Luật Sở hữu Trí tuệ" đã được Quốc Hội thông qua ngày 29-11-2005) quy định rằng khi trích một ý kiến, một quan điểm hay một văn bản, người trích (tức người sử dụng) “phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm” (Điều 25, khoản 2). Việc ghi xuất xứ sẽ đảm bảo đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ của tác giả, đồng thời cho phép người đọc có thể kiểm tra tính chính xác của việc trích dẫn. Khi thiếu các yếu tố xuất xứ, thì văn bản được trích dẫn sẽ không còn giá trị sử dụng. Vì người đọc sẽ không biết quan điểm được trích dẫn đó là của ai, xuất hiện khi nào, ở đâu. Có nghĩa là văn bản đó mất hẳn “giá trị gia tăng”.
Đối với người dùng tin, khi sử dụng thông tin trích dẫn mà không căn cứ vào thời điểm xuất hiện của thông tin trích dẫn, thì sẽ lẫn lộn trình tự xuất hiện của các quan điểm trong diễn biến của vấn đề, dẫn đến chỗ đánh giá sai sự việc, làm cho công trình nghiên cứu hay bài viết của mình trở nên vô giá trị.
Như vậy, tôn trọng thời gian là yêu cầu tối thiểu của một nhà khoa học. Và đó cũng là yêu cầu tối thiểu của báo chí, kể cả báo viết, báo hình lẫn báo mạng.
18-3-2011
BÌNH LUẬN: THƠ VÀ VĂN XUÔI
THƠ VĂN XUÔI – TIỀM NĂNG VÀ TRIỀN VỌNG
NGUYỄN VĂN DÂN
Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, thể thơ văn xuôi đã được thịnh hành khá phổ biến. Trên thế giới, người ta cho rằng thơ văn xuôi chính thức xuất hiện vào năm 1842 qua bài thơ văn xuôi “Gaspard bóng đêm” của nhà thơ Pháp Louis Bertrand, như là một phản ứng chống lại một lối thơ niêm luật chặt chẽ đang thịnh hành thời bấy giờ là thơ “alexandrin”. Tuy nhiên mầm mống của nó phải kể từ sáu bài thơ văn xuôi có xen lẫn các vần thơ trong tập thơ “Tụng ca bóng đêm” của nhà thơ lãng mạn Đức Novalis (nam tước Von Hardenberg), xuất bản năm 1800, trước khi ông mất một năm, khi ông 29 tuổi và chưa kịp kết hôn. Nhưng phải đến cuối thế kỷ XIX thì nó mới được tiếp nhận rộng rãi bởi các nhà thơ tượng trưng Pháp, như Charles Baudelaire với tập thơ “Những bài thơ văn xuôi” (1869, về sau tập thơ này được in lại với tên gọi mới là “Paris chán chường”), như Stéphane Mallarmé với tập thơ “Những lời vẩn vơ” (1897), Arthur Rimbaud với tập “Khải huyền” (1886), và một loạt các nhà thơ tượng trưng đương thời khác như Paul Valéry, Paul Fort và Paul Claudel. Từ đó thơ văn xuôi được xác lập vững vàng trong thơ ca Pháp. Ở Đức, thơ văn xuôi cũng được các nhà thơ lãng mạn cuối thế kỷ XIX tiếp nhận như Rainer Maria Rilker... Nước Anh từ cuối thế kỷ XIX cũng bắt đầu tiếp nhận thơ văn xuôi với sự tham gia của Oscar Wilde, và sang thế kỷ XX đã có những nhà thơ rất tích cực viết thơ văn xuôi như Gertrude Stein và Sherwood Anderson.
Thơ văn xuôi là bước phát triển cao nhất của thơ tự do. Ngoài đặc trưng chung của thơ ca là nhịp điệu, thơ văn xuôi còn giống thơ tự do ở cùng một điểm chung là không bị ràng buộc vào các quy tắc về số câu, số chữ, niêm luật... Nhưng, nó khác với thơ tự do ở chỗ là trong khi thơ tự do vẫn lấy câu thơ làm đơn vị nhịp điệu và có thể vẫn có vần, thì thơ văn xuôi không phân dòng, không dùng hình thức câu thơ làm đơn vị nhịp điệu, và thứ hai là thơ văn xuôi không có vần. (Xem “Từ điển thuật ngữ văn học” (Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi chủ biên), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1992, tr. 217-218.)
Cùng trong xu hướng của thơ tự do, thơ văn xuôi là thể thơ rất phù hợp với việc diễn đạt những trăn trở, suy tư triết lý và suy tưởng về nhân tình, thế sự. Đây là một lối thoát cho các nhà thơ khi họ muốn dùng thơ để nhập cuộc tham gia bàn luận tự do về số phận của con người và xã hội, khi mà các thể thơ có niêm luật gò bó không đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề của thời đại. Chính vì vậy mà thơ văn xuôi nhanh chóng được đông đảo các nhà thơ trên thế giới tiếp nhận.
Từ giữa thế kỷ XX đến nay, một loạt các nhà thơ trên thế giới từ Âu sang Á đã sáng tác thơ văn xuôi, trong đó có nhà thơ đã đoạt giải Nobel văn học như nhà thơ Pháp Saint-John Perse (1960).
Ở Trung Quốc, Lỗ Tấn cũng đã sáng tác thơ văn xuôi, và ngày nay, nhà văn Giả Bình Ao cũng có những bài thơ văn xuôi rất đậm chất lôgic triết lý:
“Mẹ ơi, mẹ bảo quả táo trên cây chín đỏ là nhờ có mặt trời. Thế thì củ cải đỏ lớn lên trong lòng đất vì sao mà đỏ?
Mẹ ơi, mẹ bảo gà trống gáy thì trời sáng, thế sao gà trống chết rồi mà trời vẫn sáng?
Mẹ ơi, mẹ bảo con không nên hỏi mẹ như vậy, vì làm mẹ thì không bao giờ sai. Vậy thì con cũng sẽ không bao giờ sai, vì sau này con cũng sẽ làm mẹ”.
(Giả Bình Ao, “Hỏi” - Trích theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, sách đã dẫn, tr. 218.)
Thơ văn xuôi cũng rất phù hợp để diễn đạt dòng suy tưởng về cái tuyệt đối, cái tinh khiết trong tình cảm. Nhà thơ siêu thực Pháp Paul Éluard, vào những năm 20 của thế kỷ XX, đã có những câu thơ tình văn xuôi rất tinh khiết, hướng tới cái tuyệt đối:
“Từ lúc còn trẻ tôi đã dang tay đón nhận sự trắng trong. Đó chỉ là một tiếng vỗ cánh trên bầu trời vĩnh hằng của tôi, chỉ là một tiếng tim đập, tiếng đập của một con tim đang yêu trong lồng ngực bị chinh phục. Tôi không còn có thể bị sa ngã được nữa.
Tôi đang yêu tình yêu. Quả thực, ánh sáng làm cho tôi loá mắt. Tôi giữ lại ánh sáng đủ dùng để ngắm nhìn bóng đêm, suốt đêm, hết đêm này sang đêm khác.
Các cô trinh nữ, chẳng cô nào giống cô nào. Tôi luôn luôn mơ ước một cô.
Ở trường nàng mặc chiếc váy yếm màu đen ngồi ở bàn trước mặt tôi. Khi nàng quay xuống hỏi tôi đáp số một bài toán, thì vẻ ngây thơ trong mắt nàng làm tôi bối rối đến nỗi nàng thương tình đưa tay ôm lấy cổ tôi.
Thế rồi, nàng chia tay tôi đi xa. Nàng lên tàu. Chúng tôi trở thành gần như người dưng nước lã...”
(Trong tập thơ “Những mặt trái của một đời người hay là kim tự tháp nhân loại, Quân Q rô”)
Có thể nói, thơ văn xuôi đã chứng tỏ được tiềm năng to lớn của nó.
Ở Việt Nam, thơ văn xuôi bắt đầu vào nước ta qua sáng tác của các nhà Thơ mới giai đoạn 1932-1942. Trong công trình hợp tuyển “Thi nhân Việt Nam” in năm 1942, Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết: “Phong trào thơ mới lúc bột phát có thể xem như một cuộc xâm lăng của văn xuôi. Văn xuôi tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan tành.” (Hoài Thanh – Hoài Chân, “Một thời đại trong thi ca”. Trong: Hoài Thanh – Hoài Chân, “Thi nhân Việt Nam”, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, tr. 38 [sách tái bản]). Đấy là nói đến ảnh hưởng của văn xuôi nói chung, một dấu hiệu của công cuộc hiện đại hoá văn học Việt Nam, khi mà trước đây, trong thời trung đại, văn chương Việt Nam chủ yếu phát triển ở lĩnh vực thơ ca. Trong bối cảnh đó, thơ văn xuôi của phương Tây được coi là một trong những con đường giải phóng cho thơ ca Việt Nam thoát khỏi sự ràng buộc của các quy tắc thơ cũ.
Quả thực, thơ văn xuôi đã thâm nhập vào Thơ mới từ con đường thơ tượng trưng, thơ siêu thực... của phương Tây, đặc biệt là của thơ Pháp. Nhưng cũng có người cho rằng thơ văn xuôi đã có bóng dáng “ở các thể loại văn vần như phú, văn tế, hoặc các loại biền như hịch, cáo” từ thời trung đại. (Nguyễn Phong Nam – Hoàng Sĩ Nguyên, “Sự tương tác giữa các thể loại văn học và thể thơ văn xuôi trong Thơ mới 1932-1945”, tr. 4, www.kh-sdh.udn.vn/zipfiles/So17/14_nam_nguyenphong.doc.) Tuy nhiên theo chúng tôi, căn cứ vào định nghĩa về thơ văn xuôi là “thơ không có vần” như đã nói ở trên, mặt khác căn cứ vào một điều nữa là phú, tế, hịch, cáo không phải là các thể văn vần, mà chúng chỉ đơn giản là các thể văn được viết bằng cả văn vần lẫn văn xuôi, thì không thể nói tất cả các thể văn của văn chương cổ-trung đại trên đây là nguồn gốc của thơ văn xuôi hiện đại Việt Nam. Mà chỉ có thể nói rằng “có bóng dáng của thơ văn xuôi trong các bài văn phú, tế, hịch, cáo khi những bài này được viết bằng văn xuôi”. Hơn nữa, theo chúng tôi, những sáng tác này cũng chỉ là một “cơ sở” mờ nhạt, còn nguồn ảnh hưởng trực tiếp dẫn đến hình thành thơ văn xuôi hiện đại Việt Nam thì phải kể đến thơ tượng trưng và thơ siêu thực của phương Tây.
Với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hoá-văn học phương Tây diễn ra hồi đầu thế kỷ XX, đến nỗi, “Mỗi nhà thơ Việt hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp” (Hoài Thanh – Hoài Chân, bài đã dẫn, tr. 34.), và cùng với thơ tự do, thơ văn xuôi cũng bắt đầu được các nhà Thơ mới thử nghiệm. Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh v.v... đã có những áng thơ văn xuôi rất tinh khiết trong đó ta thấy thấp thoáng bóng dáng thơ Paul Éluard:
“Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng cung nữ thời xưa… Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa, và linh hồn vẫn là linh hồn tôi năm trước… Chân ai đi xa vắng ngày xưa, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh?
Thu đã về đây, tôi làm lữ khách đi hết sông này, sông khác, cả núi, cả đèo và cả rừng, cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để hiểu thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều”.
(Đinh Hùng, “Cảm thu”)
“Giọt mưa rơi, mưa rơi, giọt mưa rơi... Mưa rơi kết tinh suy tưởng của hồn ta. Tương tư của hai ta có phải cầm giữ đâu vô bờ bến? Nó thành giọt, để đọng giọt nhớ thương. Nó nhẹ nhàng, êm ái, nhưng nó bao la như những cõi vô cùng, hàng vạn triệu. Chiều nay ngoài khung cửa sổ đời ta, từng giọt, từng giọt, từng giọt, nhưng ta biết lấy gì dếm được.
Mưa rơi từ trăng xuống. Mưa rời từ đất cỏ, đi lên. Từ trăng xuống, từ đất lên, nhũng sáng và những trưa mai, và giọt mưa rơi…”
(Nguyễn Xuân Sanh, “Giọt mưa rơi”)
“Tháng lúa chín: vụ gặt trong nắng xanh. Hồn của đất: lúa thơm. Sự sống thầm, và hoa mỹ. Nghĩ rằng một hạt cốm nếp mang đọng bao nhiêu hương đất, bao nhiêu tháng ái ân…
Muốn nhìn, muốn gửi, muốn nếm, muốn thương”.
(Nguyễn Xuân Sanh, “Đất thơm” - Trích theo Nguyễn Phong Nam – Hoàng Sĩ Nguyên, bài đã dẫn, tr. 5.)
Từ thời hoà bình đến nay, thơ văn xuôi đã khẳng định được chỗ đứng trong thơ ca Việt Nam. Đặc biệt, thơ văn xuôi dường như đã tìm được mảnh đất thích hợp trong trường ca. Sau khoảnh khắc được thử nghiệm ngắn ngủi trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, thơ văn xuôi tự tin thâm nhập vào trường ca với “Khối vuông rubíc” của Thanh Thảo (1985). Thanh Thảo đã dành trọn vẹn trường ca này cho thơ văn xuôi. Tiếp đến, thơ văn xuôi xuất hiện ở một số chương trong “Người cùng thời” của Mai Văn Phấn (1999), trong “Trên đường” (2004) và “Ngày đang mở sáng” (2007) của Trần Anh Thái, “Hành trình của con kiến” của Lê Minh Quốc (năm 2006), và lại có mặt trong suốt bản trường ca “Phồn sinh” dài 200 trang của Nguyễn Linh Khiếu (2007).
Như cùng một ước hẹn, thơ văn xuôi trong trường ca Việt Nam hiện đại được các nhà thơ vận dụng để bày tỏ những dòng (đúng là “những dòng”) trăn trở, suy tư, cả những dòng suy tư triết lý và những cảm xúc sôi trào, những điều mà có lẽ cái khuôn khổ gò bó của các thể thơ truyền thống không cho phép họ bộc bạch hết được:
“Tôi xoay những ô vuông. Những sắc màu chưa đồng nhất. Rubíc một trò chơi kỳ lạ. Chúng ta phải vất vả bao nhiêu để sắp xếp lại những ý nghĩ. Có hàng tỷ cách sắp xếp. Rubic – đó là cấu trúc của thơ.”
(Thanh Thảo, “Khối vuông rubíc”)
“Không có ai đốt lửa trước con đường, chỉ có niềm hy vọng cháy lên. Sức mạnh bàn chân ở nơi thẳm sâu niềm trắc ẩn, ngân nga nơi dấu chân tổ tiên, nơi những câu chuyện buồn không dứt. Đi! Dừng lại là đắm chìm, là hoang mang cay đắng, là tiếng vọng xa xăm lạnh buốt cõi người. Không có bờ sóng vỗ vào đâu?”
(Trần Anh Thái, “Trên đường”)
“trong những thời đại nhân danh dân chủ người cầm quyền làm bất cứ việc gì mà họ muốn đều với danh nghĩa dân chủ trong thời đại đó tất cả mọi người đang bị giam cầm trong nhà tù tất cả mọi người đã bị tuyên án tử hình tất cả mọi người đang đứng dưới giá treo cổ tất cả mọi người đã ở đoạn đầu đài tất cả mọi người đã dựa cột ở pháp trường tất cả mọi người đã đứng bên miệng huyệt”
(Nguyễn Linh Khiếu, “Phồn sinh I”)
Nói chung, các nhà thơ thường lấy thơ văn xuôi để nhằm giải quyết những vấn đề và những nhiệm vụ lớn của thời đại, cũng như để thể hiện những khát vọng và tình cảm mãnh liệt của cá nhân. Đó là một sứ mạng quan trọng của thơ văn xuôi. Vì thế mà tiềm năng của nó rất lớn. Nhưng cũng chính vì thế mà thơ văn xuôi có phần kén độc giả. Nhất là khi nó lại được kết hợp với cả những thủ pháp nghệ thuật hiện đại như thủ pháp của “tiểu thuyết mới” và của kịch phi lý như trong “Phồn sinh” của Nguyễn Linh Khiếu.
Mặt khác, nếu thơ văn xuôi là kể lể, lắp ghép những câu những chữ thường tình, tẻ nhạt, không qua sự gia công, tinh luyện, thì nó sẽ gặp thất bại. Làm thơ văn xuôi không có nghĩa là cho phép đưa tất cả câu chữ của văn xuôi vào. Nó đòi hỏi phải được tinh luyện qua lò luyện của “nhịp điệu thơ”. Hoài Thanh và Hoài Chân đã khuyến cáo cách đây 66 năm trước cuộc “xâm lăng của văn xuôi” vào thơ ca: “Một đặc tính của văn xuôi là nói nhiều. Cho nên trong thơ hồi bấy giờ thi tứ hình như giãn ra”, làm cho trong thơ có nhiều câu chữ thừa. (Hoài Thanh – Hoài Chân, bài đã dẫn, tr. 38.) Chính vì lẽ đó mà ngày nay, có những trường ca có nhiều đoạn thơ văn xuôi hay, nhưng không phải là không còn những đoạn có những chữ thừa, và vì thế làm cho đoạn thơ kém hay. Ví dụ xin hãy đọc đoạn thơ văn xuôi sau đây trong “Khối vuông rubíc”:
“Tôi xoay những ô vuông. Đứa con nhỏ của tôi (bị) lên sởi, (cháu) sốt cao, không ăn uống (gì) được. Hộp sữa ‘Thống Nhất’ giá (một) trăm đồng, (tức là) [bằng] nửa tháng lương. Trách móc, than thở, hay chờ con cái (sẽ) cứu giúp (chúng ta) ? Tôi lặng lẽ ngồi vào bàn viết. Những dòng chữ giữa cơn sốt của con và hộp sữa giá cao”.
Ở đây, những chữ tôi để trong ngoặc đơn, theo tôi, là những chữ thừa, chữ trong ngoặc vuông là tôi đề xuất thay vào. Mặc dù không thể phủ nhận “Khối vuông rubíc” là một trường ca có nhiều đoạn hay và sâu sắc.
Như vậy, nếu như thơ văn xuôi không thể là “thơ văn vần nối dài” (lời của Trần Anh Thái), bởi lẽ đặc trưng của thơ văn xuôi là “thơ không vần”, thì mặt khác nó cũng không thể là văn xuôi được đơn giản “chặt khúc” ra để lắp lại cho thành một bài “thơ”. Khắc phục được hai nguy cơ đó, thơ văn xuôi có thể phát huy được tiềm năng của mình một cách hiệu quả. Hơn nữa, cùng với xu hướng phát triển mạnh mẽ của trường ca ngày nay, thơ văn xuôi càng nhìn thấy triển vọng đầy hứa hẹn cho mình. Chúng tôi xin mượn lời nhà thơ Trần Anh Thái để kết luận:
“Thơ văn xuôi (...) có những ưu thế đặc biệt trong việc thể hiện ý tưởng của nhà thơ. Nếu thơ văn xuôi vượt lên trên tình trạng ‘thơ văn vần nối dài’ thì nó sẽ có khả năng biểu hiện rất lớn. Tôi nghĩ thơ văn xuôi rất có triển vọng phát triển ở Việt Nam”. (Trần Anh Thái, “Thơ ca như một thứ tôn giáo”, www.vnexpress.vn, 11-6-2005.)
Hà Nội tháng 11-2008
(Đã đăng báo “Văn nghệ”, số 50-2008;
và trên www.hoinhavanvietnam.vn, ngày 7-12-2008)
NGUYỄN VĂN DÂN
Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, thể thơ văn xuôi đã được thịnh hành khá phổ biến. Trên thế giới, người ta cho rằng thơ văn xuôi chính thức xuất hiện vào năm 1842 qua bài thơ văn xuôi “Gaspard bóng đêm” của nhà thơ Pháp Louis Bertrand, như là một phản ứng chống lại một lối thơ niêm luật chặt chẽ đang thịnh hành thời bấy giờ là thơ “alexandrin”. Tuy nhiên mầm mống của nó phải kể từ sáu bài thơ văn xuôi có xen lẫn các vần thơ trong tập thơ “Tụng ca bóng đêm” của nhà thơ lãng mạn Đức Novalis (nam tước Von Hardenberg), xuất bản năm 1800, trước khi ông mất một năm, khi ông 29 tuổi và chưa kịp kết hôn. Nhưng phải đến cuối thế kỷ XIX thì nó mới được tiếp nhận rộng rãi bởi các nhà thơ tượng trưng Pháp, như Charles Baudelaire với tập thơ “Những bài thơ văn xuôi” (1869, về sau tập thơ này được in lại với tên gọi mới là “Paris chán chường”), như Stéphane Mallarmé với tập thơ “Những lời vẩn vơ” (1897), Arthur Rimbaud với tập “Khải huyền” (1886), và một loạt các nhà thơ tượng trưng đương thời khác như Paul Valéry, Paul Fort và Paul Claudel. Từ đó thơ văn xuôi được xác lập vững vàng trong thơ ca Pháp. Ở Đức, thơ văn xuôi cũng được các nhà thơ lãng mạn cuối thế kỷ XIX tiếp nhận như Rainer Maria Rilker... Nước Anh từ cuối thế kỷ XIX cũng bắt đầu tiếp nhận thơ văn xuôi với sự tham gia của Oscar Wilde, và sang thế kỷ XX đã có những nhà thơ rất tích cực viết thơ văn xuôi như Gertrude Stein và Sherwood Anderson.
Thơ văn xuôi là bước phát triển cao nhất của thơ tự do. Ngoài đặc trưng chung của thơ ca là nhịp điệu, thơ văn xuôi còn giống thơ tự do ở cùng một điểm chung là không bị ràng buộc vào các quy tắc về số câu, số chữ, niêm luật... Nhưng, nó khác với thơ tự do ở chỗ là trong khi thơ tự do vẫn lấy câu thơ làm đơn vị nhịp điệu và có thể vẫn có vần, thì thơ văn xuôi không phân dòng, không dùng hình thức câu thơ làm đơn vị nhịp điệu, và thứ hai là thơ văn xuôi không có vần. (Xem “Từ điển thuật ngữ văn học” (Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi chủ biên), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1992, tr. 217-218.)
Cùng trong xu hướng của thơ tự do, thơ văn xuôi là thể thơ rất phù hợp với việc diễn đạt những trăn trở, suy tư triết lý và suy tưởng về nhân tình, thế sự. Đây là một lối thoát cho các nhà thơ khi họ muốn dùng thơ để nhập cuộc tham gia bàn luận tự do về số phận của con người và xã hội, khi mà các thể thơ có niêm luật gò bó không đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề của thời đại. Chính vì vậy mà thơ văn xuôi nhanh chóng được đông đảo các nhà thơ trên thế giới tiếp nhận.
Từ giữa thế kỷ XX đến nay, một loạt các nhà thơ trên thế giới từ Âu sang Á đã sáng tác thơ văn xuôi, trong đó có nhà thơ đã đoạt giải Nobel văn học như nhà thơ Pháp Saint-John Perse (1960).
Ở Trung Quốc, Lỗ Tấn cũng đã sáng tác thơ văn xuôi, và ngày nay, nhà văn Giả Bình Ao cũng có những bài thơ văn xuôi rất đậm chất lôgic triết lý:
“Mẹ ơi, mẹ bảo quả táo trên cây chín đỏ là nhờ có mặt trời. Thế thì củ cải đỏ lớn lên trong lòng đất vì sao mà đỏ?
Mẹ ơi, mẹ bảo gà trống gáy thì trời sáng, thế sao gà trống chết rồi mà trời vẫn sáng?
Mẹ ơi, mẹ bảo con không nên hỏi mẹ như vậy, vì làm mẹ thì không bao giờ sai. Vậy thì con cũng sẽ không bao giờ sai, vì sau này con cũng sẽ làm mẹ”.
(Giả Bình Ao, “Hỏi” - Trích theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, sách đã dẫn, tr. 218.)
Thơ văn xuôi cũng rất phù hợp để diễn đạt dòng suy tưởng về cái tuyệt đối, cái tinh khiết trong tình cảm. Nhà thơ siêu thực Pháp Paul Éluard, vào những năm 20 của thế kỷ XX, đã có những câu thơ tình văn xuôi rất tinh khiết, hướng tới cái tuyệt đối:
“Từ lúc còn trẻ tôi đã dang tay đón nhận sự trắng trong. Đó chỉ là một tiếng vỗ cánh trên bầu trời vĩnh hằng của tôi, chỉ là một tiếng tim đập, tiếng đập của một con tim đang yêu trong lồng ngực bị chinh phục. Tôi không còn có thể bị sa ngã được nữa.
Tôi đang yêu tình yêu. Quả thực, ánh sáng làm cho tôi loá mắt. Tôi giữ lại ánh sáng đủ dùng để ngắm nhìn bóng đêm, suốt đêm, hết đêm này sang đêm khác.
Các cô trinh nữ, chẳng cô nào giống cô nào. Tôi luôn luôn mơ ước một cô.
Ở trường nàng mặc chiếc váy yếm màu đen ngồi ở bàn trước mặt tôi. Khi nàng quay xuống hỏi tôi đáp số một bài toán, thì vẻ ngây thơ trong mắt nàng làm tôi bối rối đến nỗi nàng thương tình đưa tay ôm lấy cổ tôi.
Thế rồi, nàng chia tay tôi đi xa. Nàng lên tàu. Chúng tôi trở thành gần như người dưng nước lã...”
(Trong tập thơ “Những mặt trái của một đời người hay là kim tự tháp nhân loại, Quân Q rô”)
Có thể nói, thơ văn xuôi đã chứng tỏ được tiềm năng to lớn của nó.
Ở Việt Nam, thơ văn xuôi bắt đầu vào nước ta qua sáng tác của các nhà Thơ mới giai đoạn 1932-1942. Trong công trình hợp tuyển “Thi nhân Việt Nam” in năm 1942, Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết: “Phong trào thơ mới lúc bột phát có thể xem như một cuộc xâm lăng của văn xuôi. Văn xuôi tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan tành.” (Hoài Thanh – Hoài Chân, “Một thời đại trong thi ca”. Trong: Hoài Thanh – Hoài Chân, “Thi nhân Việt Nam”, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, tr. 38 [sách tái bản]). Đấy là nói đến ảnh hưởng của văn xuôi nói chung, một dấu hiệu của công cuộc hiện đại hoá văn học Việt Nam, khi mà trước đây, trong thời trung đại, văn chương Việt Nam chủ yếu phát triển ở lĩnh vực thơ ca. Trong bối cảnh đó, thơ văn xuôi của phương Tây được coi là một trong những con đường giải phóng cho thơ ca Việt Nam thoát khỏi sự ràng buộc của các quy tắc thơ cũ.
Quả thực, thơ văn xuôi đã thâm nhập vào Thơ mới từ con đường thơ tượng trưng, thơ siêu thực... của phương Tây, đặc biệt là của thơ Pháp. Nhưng cũng có người cho rằng thơ văn xuôi đã có bóng dáng “ở các thể loại văn vần như phú, văn tế, hoặc các loại biền như hịch, cáo” từ thời trung đại. (Nguyễn Phong Nam – Hoàng Sĩ Nguyên, “Sự tương tác giữa các thể loại văn học và thể thơ văn xuôi trong Thơ mới 1932-1945”, tr. 4, www.kh-sdh.udn.vn/zipfiles/So17/14_nam_nguyenphong.doc.) Tuy nhiên theo chúng tôi, căn cứ vào định nghĩa về thơ văn xuôi là “thơ không có vần” như đã nói ở trên, mặt khác căn cứ vào một điều nữa là phú, tế, hịch, cáo không phải là các thể văn vần, mà chúng chỉ đơn giản là các thể văn được viết bằng cả văn vần lẫn văn xuôi, thì không thể nói tất cả các thể văn của văn chương cổ-trung đại trên đây là nguồn gốc của thơ văn xuôi hiện đại Việt Nam. Mà chỉ có thể nói rằng “có bóng dáng của thơ văn xuôi trong các bài văn phú, tế, hịch, cáo khi những bài này được viết bằng văn xuôi”. Hơn nữa, theo chúng tôi, những sáng tác này cũng chỉ là một “cơ sở” mờ nhạt, còn nguồn ảnh hưởng trực tiếp dẫn đến hình thành thơ văn xuôi hiện đại Việt Nam thì phải kể đến thơ tượng trưng và thơ siêu thực của phương Tây.
Với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hoá-văn học phương Tây diễn ra hồi đầu thế kỷ XX, đến nỗi, “Mỗi nhà thơ Việt hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp” (Hoài Thanh – Hoài Chân, bài đã dẫn, tr. 34.), và cùng với thơ tự do, thơ văn xuôi cũng bắt đầu được các nhà Thơ mới thử nghiệm. Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh v.v... đã có những áng thơ văn xuôi rất tinh khiết trong đó ta thấy thấp thoáng bóng dáng thơ Paul Éluard:
“Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng cung nữ thời xưa… Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa, và linh hồn vẫn là linh hồn tôi năm trước… Chân ai đi xa vắng ngày xưa, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh?
Thu đã về đây, tôi làm lữ khách đi hết sông này, sông khác, cả núi, cả đèo và cả rừng, cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để hiểu thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều”.
(Đinh Hùng, “Cảm thu”)
“Giọt mưa rơi, mưa rơi, giọt mưa rơi... Mưa rơi kết tinh suy tưởng của hồn ta. Tương tư của hai ta có phải cầm giữ đâu vô bờ bến? Nó thành giọt, để đọng giọt nhớ thương. Nó nhẹ nhàng, êm ái, nhưng nó bao la như những cõi vô cùng, hàng vạn triệu. Chiều nay ngoài khung cửa sổ đời ta, từng giọt, từng giọt, từng giọt, nhưng ta biết lấy gì dếm được.
Mưa rơi từ trăng xuống. Mưa rời từ đất cỏ, đi lên. Từ trăng xuống, từ đất lên, nhũng sáng và những trưa mai, và giọt mưa rơi…”
(Nguyễn Xuân Sanh, “Giọt mưa rơi”)
“Tháng lúa chín: vụ gặt trong nắng xanh. Hồn của đất: lúa thơm. Sự sống thầm, và hoa mỹ. Nghĩ rằng một hạt cốm nếp mang đọng bao nhiêu hương đất, bao nhiêu tháng ái ân…
Muốn nhìn, muốn gửi, muốn nếm, muốn thương”.
(Nguyễn Xuân Sanh, “Đất thơm” - Trích theo Nguyễn Phong Nam – Hoàng Sĩ Nguyên, bài đã dẫn, tr. 5.)
Từ thời hoà bình đến nay, thơ văn xuôi đã khẳng định được chỗ đứng trong thơ ca Việt Nam. Đặc biệt, thơ văn xuôi dường như đã tìm được mảnh đất thích hợp trong trường ca. Sau khoảnh khắc được thử nghiệm ngắn ngủi trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, thơ văn xuôi tự tin thâm nhập vào trường ca với “Khối vuông rubíc” của Thanh Thảo (1985). Thanh Thảo đã dành trọn vẹn trường ca này cho thơ văn xuôi. Tiếp đến, thơ văn xuôi xuất hiện ở một số chương trong “Người cùng thời” của Mai Văn Phấn (1999), trong “Trên đường” (2004) và “Ngày đang mở sáng” (2007) của Trần Anh Thái, “Hành trình của con kiến” của Lê Minh Quốc (năm 2006), và lại có mặt trong suốt bản trường ca “Phồn sinh” dài 200 trang của Nguyễn Linh Khiếu (2007).
Như cùng một ước hẹn, thơ văn xuôi trong trường ca Việt Nam hiện đại được các nhà thơ vận dụng để bày tỏ những dòng (đúng là “những dòng”) trăn trở, suy tư, cả những dòng suy tư triết lý và những cảm xúc sôi trào, những điều mà có lẽ cái khuôn khổ gò bó của các thể thơ truyền thống không cho phép họ bộc bạch hết được:
“Tôi xoay những ô vuông. Những sắc màu chưa đồng nhất. Rubíc một trò chơi kỳ lạ. Chúng ta phải vất vả bao nhiêu để sắp xếp lại những ý nghĩ. Có hàng tỷ cách sắp xếp. Rubic – đó là cấu trúc của thơ.”
(Thanh Thảo, “Khối vuông rubíc”)
“Không có ai đốt lửa trước con đường, chỉ có niềm hy vọng cháy lên. Sức mạnh bàn chân ở nơi thẳm sâu niềm trắc ẩn, ngân nga nơi dấu chân tổ tiên, nơi những câu chuyện buồn không dứt. Đi! Dừng lại là đắm chìm, là hoang mang cay đắng, là tiếng vọng xa xăm lạnh buốt cõi người. Không có bờ sóng vỗ vào đâu?”
(Trần Anh Thái, “Trên đường”)
“trong những thời đại nhân danh dân chủ người cầm quyền làm bất cứ việc gì mà họ muốn đều với danh nghĩa dân chủ trong thời đại đó tất cả mọi người đang bị giam cầm trong nhà tù tất cả mọi người đã bị tuyên án tử hình tất cả mọi người đang đứng dưới giá treo cổ tất cả mọi người đã ở đoạn đầu đài tất cả mọi người đã dựa cột ở pháp trường tất cả mọi người đã đứng bên miệng huyệt”
(Nguyễn Linh Khiếu, “Phồn sinh I”)
Nói chung, các nhà thơ thường lấy thơ văn xuôi để nhằm giải quyết những vấn đề và những nhiệm vụ lớn của thời đại, cũng như để thể hiện những khát vọng và tình cảm mãnh liệt của cá nhân. Đó là một sứ mạng quan trọng của thơ văn xuôi. Vì thế mà tiềm năng của nó rất lớn. Nhưng cũng chính vì thế mà thơ văn xuôi có phần kén độc giả. Nhất là khi nó lại được kết hợp với cả những thủ pháp nghệ thuật hiện đại như thủ pháp của “tiểu thuyết mới” và của kịch phi lý như trong “Phồn sinh” của Nguyễn Linh Khiếu.
Mặt khác, nếu thơ văn xuôi là kể lể, lắp ghép những câu những chữ thường tình, tẻ nhạt, không qua sự gia công, tinh luyện, thì nó sẽ gặp thất bại. Làm thơ văn xuôi không có nghĩa là cho phép đưa tất cả câu chữ của văn xuôi vào. Nó đòi hỏi phải được tinh luyện qua lò luyện của “nhịp điệu thơ”. Hoài Thanh và Hoài Chân đã khuyến cáo cách đây 66 năm trước cuộc “xâm lăng của văn xuôi” vào thơ ca: “Một đặc tính của văn xuôi là nói nhiều. Cho nên trong thơ hồi bấy giờ thi tứ hình như giãn ra”, làm cho trong thơ có nhiều câu chữ thừa. (Hoài Thanh – Hoài Chân, bài đã dẫn, tr. 38.) Chính vì lẽ đó mà ngày nay, có những trường ca có nhiều đoạn thơ văn xuôi hay, nhưng không phải là không còn những đoạn có những chữ thừa, và vì thế làm cho đoạn thơ kém hay. Ví dụ xin hãy đọc đoạn thơ văn xuôi sau đây trong “Khối vuông rubíc”:
“Tôi xoay những ô vuông. Đứa con nhỏ của tôi (bị) lên sởi, (cháu) sốt cao, không ăn uống (gì) được. Hộp sữa ‘Thống Nhất’ giá (một) trăm đồng, (tức là) [bằng] nửa tháng lương. Trách móc, than thở, hay chờ con cái (sẽ) cứu giúp (chúng ta) ? Tôi lặng lẽ ngồi vào bàn viết. Những dòng chữ giữa cơn sốt của con và hộp sữa giá cao”.
Ở đây, những chữ tôi để trong ngoặc đơn, theo tôi, là những chữ thừa, chữ trong ngoặc vuông là tôi đề xuất thay vào. Mặc dù không thể phủ nhận “Khối vuông rubíc” là một trường ca có nhiều đoạn hay và sâu sắc.
Như vậy, nếu như thơ văn xuôi không thể là “thơ văn vần nối dài” (lời của Trần Anh Thái), bởi lẽ đặc trưng của thơ văn xuôi là “thơ không vần”, thì mặt khác nó cũng không thể là văn xuôi được đơn giản “chặt khúc” ra để lắp lại cho thành một bài “thơ”. Khắc phục được hai nguy cơ đó, thơ văn xuôi có thể phát huy được tiềm năng của mình một cách hiệu quả. Hơn nữa, cùng với xu hướng phát triển mạnh mẽ của trường ca ngày nay, thơ văn xuôi càng nhìn thấy triển vọng đầy hứa hẹn cho mình. Chúng tôi xin mượn lời nhà thơ Trần Anh Thái để kết luận:
“Thơ văn xuôi (...) có những ưu thế đặc biệt trong việc thể hiện ý tưởng của nhà thơ. Nếu thơ văn xuôi vượt lên trên tình trạng ‘thơ văn vần nối dài’ thì nó sẽ có khả năng biểu hiện rất lớn. Tôi nghĩ thơ văn xuôi rất có triển vọng phát triển ở Việt Nam”. (Trần Anh Thái, “Thơ ca như một thứ tôn giáo”, www.vnexpress.vn, 11-6-2005.)
Hà Nội tháng 11-2008
(Đã đăng báo “Văn nghệ”, số 50-2008;
và trên www.hoinhavanvietnam.vn, ngày 7-12-2008)
Thứ Hai, 6 tháng 10, 2014
RỤNG XUỐNG NỒNG NÀN
Thơ
*
Nhuộm lòng nhau đâu cần đến mùa thu
Đâu cần đến khoảng trời trĩu nặng
Đâu cần những bài thơ trám đầy xác nắng
Đâu đến chia ly. Đâu đến tận xa lìa...
Lá không còn rạo rực ở ngoài kia
Ngày không còn tràn trề khát nóng
Mùa chưa đi vẫn mùa xô dạt bến
Người không về... Nỗi nhớ cũng nghiêng chan.
Bắt gặp lòng mình chín rụng nỗi chờ mong
Tháng 9 mới bắt đầu sao mùa đông sắp đến
Không có chiến tranh vẫn người xa cách biển
Không chờ nhau chập choạng bãi thưa người
Vẫn xa rời dù biết cuối đường trời
Ngôi sao quẫy trên nóc trời chấp chới
Vẫn da diết cho dù không giữ nổi
Góc tương phùng đẽo gọt một tri âm!
Vắt kiệt mùa nhỏ xuống giọt trăm năm
Khoan hãy cạn để lòng còn lắng cát!
Men chưa ngấu chỉ xin đừng quá nhạt
Khúc sang mùa giọt nước cũng say lòng...
Pha rượu trời với đáy nước hồ trong
Cơn khát cạn một vũng buồn số phận
Trăm năm nợ ngàn năm lời thưa thốt
Nồng nàn rơi
Rụng xuống
lúc sang mùa...
----
Ka
06092014
*
Nhuộm lòng nhau đâu cần đến mùa thu
Đâu cần đến khoảng trời trĩu nặng
Đâu cần những bài thơ trám đầy xác nắng
Đâu đến chia ly. Đâu đến tận xa lìa...
Lá không còn rạo rực ở ngoài kia
Ngày không còn tràn trề khát nóng
Mùa chưa đi vẫn mùa xô dạt bến
Người không về... Nỗi nhớ cũng nghiêng chan.
Bắt gặp lòng mình chín rụng nỗi chờ mong
Tháng 9 mới bắt đầu sao mùa đông sắp đến
Không có chiến tranh vẫn người xa cách biển
Không chờ nhau chập choạng bãi thưa người
Vẫn xa rời dù biết cuối đường trời
Ngôi sao quẫy trên nóc trời chấp chới
Vẫn da diết cho dù không giữ nổi
Góc tương phùng đẽo gọt một tri âm!
Vắt kiệt mùa nhỏ xuống giọt trăm năm
Khoan hãy cạn để lòng còn lắng cát!
Men chưa ngấu chỉ xin đừng quá nhạt
Khúc sang mùa giọt nước cũng say lòng...
Pha rượu trời với đáy nước hồ trong
Cơn khát cạn một vũng buồn số phận
Trăm năm nợ ngàn năm lời thưa thốt
Nồng nàn rơi
Rụng xuống
lúc sang mùa...
----
Ka
06092014
Những Con Lừa Của Thời Đại Mới / Alan Phan
(Có 2 cách để bị lừa dối. Một là tin vào những điều không thực; hai là không chịu tin vào những điều thực – There are two ways to be fooled. One is to believe what isn’t true; the other is to refuse to believe what is true – Soren Kierkegaard)
Những năm đầu tiên khi làm cho Eisenberg, tôi thường được đi gặp những đại gia nổi tiếng của châu Á và Nam Mỹ. Thậm chí cả vài vị nguyên thủ quốc gia. Những lần như vậy, tôi rất phấn khích, tự hào và có thể nói là thích khoe khoang…cùng các bạn đồng nghiệp, gia đình và đối tác. Một lần, ông boss kéo tôi đi ăn trưa và kể cho tôi nghe một câu chuyện.
Có khu miền núi hẻo lánh ở Peru nơi một linh mục cai quản một giáo phận khá rộng nhưng chỉ có một nhà thờ nhỏ. Địa thế hiểm trở, các làng cách nhau quá xa, nên muốn thu hút con chiên, ông làm lễ sáng chú nhật sớm tại nhà thờ trung ương, rồi chất tượng Chúa, thánh giá…lên lưng một con lừa và cùng đi bộ qua một làng khác cho lễ trưa, rồi một lễ tối tại một làng khác nữa.
Dọc đường, giáo dân đều cúi rạp người khi tượng Chúa đi qua. Con lừa rất khoái trá mỗi khi nhận được những thờ phụng và sùng bái. Cho đến một ngày, anh hàng xóm mượn con lừa của nhà thờ để qua một làng khác mua sắm. Vẫn con đường cũ, vẫn những giáo dân xưa…nhưng không ai buồn nhìn con lừa chứ đừng nói đến chuyện chấp tay lạy. Con lừa vỡ lẽ rằng không phải “con lừa” mà là hào quang của “tượng Chúa” đã tạo nên sự khác biệt.
Tôi tỉnh người…và còn tỉnh hơn nữa, khi hết làm cho Eisenberg. Những cú phone gọi đến các đại gia đã từng ca tụng và tiếp đãi thân thiết tôi trong những bữa tiệc không bao giờ qua khỏi screening của các trợ lý. Con lừa lại trở thành …con lừa.
Một điểm yếu của tuổi trẻ là hay lầm lẫn những gì mình thực sự làm chủ và những gì do người khác nhờ mang dùm.
Trong một nền kinh tế mà mọi chuyện của xã hội đều được vận hành bởi “quan hệ với quyền lực” thì phần lớn con lừa đều mang chung một ảo tường về giá trị và thực chất của con người mình. Với ngôn ngữ phương Tây, con lừa thường tượng trưng cho sự ngu xuẩn. Ở Việt Nam, chữ “lừa” còn mang thêm vài thâm ý: mong là cái bề ngoài nhờ quyền lực có thể làm mù mắt người ngoài hay “lừa” chính mình về sự giá trị thực sự của bản thân.
Một thí dụ gần đây là Chu Vĩnh Khang hay Bạc Hy Lai của Trung Quốc. Với tài sản thâu tóm khoảng 25 tỷ đô la cho 2 gia đình và một vị thế chánh trị gần như tuyệt đối vì nắm bộ máy công an và tuyên truyền, hai ông là hai đỉnh cao của xã hội lừa. Bây giờ, con lừa lại trở thành …con lừa, và sắp bị hy sinh.
Gần đây, vì tuổi tác mình đã cao, nên tôi hay gặp những cựu quan chức về hưu sau một thời lừng lẫy. Họ vẫn còn nhiều hoang tưởng về quyền lực, về trí khôn, về ảnh hưởng…Cũng may là phần lớn đã “hạ cánh an toàn”, giấu diếm được ít nhiều tiền bạc và tài sản, nên cũng còn điếu đóm vây quanh. Mất đi những thứ này thì họ sẽ chỉ biết cam phận…như hàng chục triệu con lừa họ đã sinh sản ra suốt vài chục năm qua.
Doanh nghiệp cũng không khác gì hơn con người. Lợi nhuận tạo ra từ những phi vụ dựa trên quan hệ với quyền lực thì không thể nào bền vững hay đem ứng dụng vào một môi trường kinh doanh khác. Tôi gặp vài đại gia Trung Quốc và Việt Nam, sau khi bị thất sủng và mất tài sản, thu góp vài chục triệu đô la qua Mỹ tìm đường làm ăn. Họ cũng năng động và cố gắng nhưng họ nhận rõ rằng kỹ năng và kinh nghiệm của họ không thích hợp (nói nôm na là không có quan chức Mỹ nào chịu chống lưng để cùng đi đường tắt); nên cuối cùng, họ đem tiền quay về nước hay tìm đến những xứ xa xôi tận châu Phi hay Trung Đông nơi “phong bì” vẫn là một văn hóa.
Cái giá trị thực của một doanh nghiệp (như con người) là những tài sản mềm: sáng tạo, thương hiệu, uy tín, thị phần, cách phục vụ khách hàng, sản phầm chất lượng, công nghệ know-how, đội ngũ quản lý. Không phải vài miếng đất cướp từ nông dân hay nhà máy xây bằng tiền OPM của ngân hàng qua các định giá giả tạo.
Một quốc gia cũng có những giá trị tương tự. Nếu một chế độ không đặt nền tảng dựa trên hạnh phúc thực của người dân, đo lường bằng thu nhập và tự do; nếu một chế độ không coi trọng danh dự, trung thực và minh bạch; mà chỉ dựa trên quyền lực đán áp, nhất là từ chỉ thị của nước ngoài…thì con lừa quốc gia sẽ tụt hậu lần lần cho đến một ngày “tượng… lãnh đạo” không còn chất thánh. Và… con lừa lại trở thành …con lừa (nghĩa đen và trắng).
Alan Phan
http://www.gocnhinalan.com/blog-cua-alan-va-bca/nhung-con-lua-cua-thoi-dai-moi.html
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)